Bởi đức Phật ra đời là để độ sinh chớ đâu phải để độ tử. Nói chung, đã là kinh Phật thì bộ kinh nào chúng ta cũng có thể tụng đọc được cả. Vì kinh nào cũng có công năng thù thắng là phá trừ mê mờ, vọng chấp, khai thông nguồn tuệ giác cho tất cả chúng sinh, mà thuật ngữ chuyên môn của Phật giáo gọi là: "Chuyển mê khai ngộ". Quan niệm tụng crúc Đại bi mong mỏi cầu hết khổ là không ổn học thuyết đạo Phật. Từ lời dạy dỗ trên Sư Prúc bọn họ hiểu rõ rằng, một fan ý muốn được clỗi Thiên độ trì, bảo lãnh cần được chân thực tu hành, thực hành lời Phật dạy dỗ thì mới lợi ích giỏi đẹp nhất. VẤN: Con nghe nói với những người bị ma nhập, bóng đè, bị dính bùa ngãi thì nên đọc tụng hoặc đeo giây chú Chuẩn Đề. Có người lại bảo nên đọc chú Lăng Nghiêm hoặc đọc tụng ngược mới đúng vì ngày xưa Ngài A Nan đã được giải thoát khỏi Ma Đăng Già là nhờ Đức Phật dùng chú Lăng Nghiêm hóa giải. I. ÐỊNH NGHĨA. 1. Tụng kinh: Tụng là đọc thành tiếng một cách có âm điệu và thành kính. Tụng kinh là đọc một cách thành kính những lời đức Phật đã dạy trong kinh điển, hợp với chân lý và căn cơ của chúng sinh. 2. Trì chú: Trì là nắm giữ một cách chắc chắn. Tố tụng hình sự là gì? đã được giải đáp ở nội dung trên theo đó các giai đoạn tố tụng hình sự được tiến hành như sau: Giai đoạn 1: Tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm. Theo quy định tại Điều 145 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định cơ quan điều Phàm cầu việc gì cũng vừa lòng toại tâm. Huống người trai giới đầy đủ, nhất tâm thanh tịnh y pháp tụng trì, thì nhất định chuyển thân này tức chứng Bồ Đề có được công lực. Huống chi là người năng y Pháp trì tụng, có thể chuyển nhục thân, được Ðại Thần 1qZJz. Kinh Phổ Môn là gì mà vào những dịp khánh hỷ, cầu an thường được các gia đình đi cầu nguyện, tụng kinh mong ước cho mưa thuận gió hoà. Ý nghĩa của loại kinh này ra sao? Nội dung như thế nào?Hãy tham khảo bài viết sau để hiểu hơn về kinh Phổ Môn. Danh Mục Nội Dung1. Kinh Phổ Môn là gì?2. Ý nghĩa của kinh Phổ Môn3. Nội dung chính của kinh Phổ Môn4. Khoá lễ tụng kinh Phổ Môn 5. Khi nào nên tụng kinh Phổ Môn?6. Cách trì tụng kinh Phổ Môn1. Tụng kinh Phổ Môn nên làm ở chùa hay ở nhà?2. Chuẩn bị gì trước khi tụng kinh Phổ Môn? 3. Những lưu ý khi tụng kinh Phổ Môn 1. Kinh Phổ Môn là gì? Là bài kinh được nói về hạnh nguyện độ sanh của Bồ Tát Quan Thế Âm. Loại kinh này được gọi với tên thông thường là kinh quan Thế Âm, Phẩm Phổ Môn. Qua bài kinh để giới thiệu “quán chiếu” cuộc đời nhằm cho chúng sinh giác ngộ, giải thoát bằng phương pháp tu tập phổ biến. Bản kinh Phổ có nguyên tắc viết bằng chữ Sanskrit. Hiện nay được dịch theo 3 bản chữ Hán như sau Bản đầu tiên của ngài Trúc Pháp Hộ có tựa đề”Quan Thế Âm Bồ tát”. Đây là tác phẩm thứ 23 nằm trong Chánh Pháp Hoa Kinh. Bản thứ 2 của ngài Cưu ma la thập dịch có tựa đề “Quan Thế Âm Bồ tát Phổ Môn Phẩm”. Tác phẩm thứ 25 trong kinh Hoa Sen Chánh Pháp. Bản thức 3 được dịch bởi ngài Xà na quật đa và Đạt ma cấp đa dịch có tựa đề “Quan Thế Âm bồ tát Phổ Môn Phẩm. Giống với tên bản dịch của ngài Cưu ma la thập. Bản nằm trong phẩm thứ 24 của Thiêm Phẩm Pháp Hoa Kinh. Sách kinh Phổ Môn Cả ba bản dịch chỉ có bản thứ 3 là đầy đủ 2 phần văn xuôi và thi hoá phần văn xuôi. Khi bản dịch thứ 3 ra đời được người dân sử dụng đến nay. Bản dịch tiếng Việt được lấy từ bản chữ Hán của Cưu ma la thập, được giữ nguyên phần thi hoá văn xuôi. Bởi nội dung có trong phần thi hoá văn xuôi không có trong phần văn. Ngược lại, nội dung trong phần văn sẽ không có trong phần thi hoá văn xuôi. *** Tìm hiểu thêm Nghi thức khai quang điểm nhãn là gì ? Ý nghĩa của khai quang điểm nhãn 2. Ý nghĩa của kinh Phổ Môn Bài kinh Phổ Môn có tính ẩn dụ cao. Thế nên để hiểu được ý nghĩa của bài kinh cần nghiên cứu sâu sắc. Bởi đọc kinh không chỉ nhìn chữ để tụng kinh mà quan trọng là chúng ta phải hiểu được ý nghĩa bên trong. Tụng kinh không đồng nghĩa với điều ước đạt được. Bồ tát không phải là thần linh có thể cứu nguy. Do đó mà mục tiêu của việc tụng kinh không phải để cầu xin, van xin sự giúp đỡ. Cốt lõi của việc tụng kinh là cách chúng ta tu tập quán chiếu cuộc đời. Phương pháp này giúp con người khởi duyên để tự giải thoát khỏi đau khổ. Bản thân sẽ thấy nhẹ nhàng hơn, thanh tịnh hơn. Ngoài ra, ý nghĩa của kinh Phổ Môn là sự bao dung, tình thương mà Bồ tát ban cho chúng ta thông qua cách thức độ sinh. Mỗi người tu tập sẽ khác nhau, dựa vào căn cơ khác nhau. Và ứng thân với các vị Bồ tát khác nhau. Kinh Phổ Môn là phương pháp giúp con người thoát khỏi bề khổ Không có vị Bồ Tát nào cứu giúp chúng ta cầu gì, ước gì sẽ được đó. Bởi luật nhân quả giống nghiệp báo. Bài kinh sẽ chỉ cho chúng ta hiểu trong cuộc đời mỗi con người có 5 loại âm thanh hiện hữu. Đó là Diệu Âm, Phạm Âm, Quán Thế Âm, Hải Triều âm và Siêu việt thế gian Âm. Đổi lại sẽ có 5 pháp quán chiều Chân Quán, Bi Quán, Từ Quán, Thanh tịnh quán và Quảng đại trí tuệ quán. Dựa vào đó mà chúng ta có thể giúp bản thân tự giải thoát chính mình ra khỏi bể khổ. Tu tập, tự cứu mình và vị tha nhân khỏi bất hạnh. 3. Nội dung chính của kinh Phổ Môn Trong bài kinh Phẩm Phổ Môn sẽ có 3 nội dung chính như sau Thần lực trì danh Quan Âm. Cứu thế độ sinh qua 33 ứng thân. Phương pháp ngũ âm, ngũ quán. Nội dung của kinh Phổ Môn đầu tiên là giới thiệu sự tương giao trong nhân quả. Giữa Quan thế Âm bồ tát với chúng sinh. Quan Thế Âm là người ban niềm vui cho con người. Là điểm tựa, nuôi dưỡng trí tuệ, tu thân tích đức, nỗ lực trở thành người thánh đức. 4. Khoá lễ tụng kinh Phổ Môn Khoá tụng kinh Phổ Môn được chia thành 3 phần bao gồm Phần đầu tiên Nghi thức dẫn nhập có 5 tiết mục là nguyện hương, tán hương, đảnh lễ ba ngôi báu, phát nguyện trì kinh, tán dương giáo pháp. Phần 2 Chính kinh. Giới thiệu hạnh nguyện độ sanh của Bồ Tát Quan Thế Âm. Phần 3 Sám nguyện và hồi hướng. Ban đều sẽ học bài Bát Nhã Tâm Kinh. Bài học giúp người tụng kinh độc diệt từ tất cả các đau khổ trong cuộc đời. Phương pháp được áp dụng ở phần này là quán chiếu năm yếu tố để hình thành con người. Khi kể đến 12 lời nguyện Bồ Tát Quan Thế Âm giúp người học tu học hiểu về bản nguyện cứu thế độ sinh. *** Tìm hiểu thêm Linh thú cát tường là gì? Cách chọn linh thú phù hợp theo tuổi và mệnh 5. Khi nào nên tụng kinh Phổ Môn? Người ta thường đi tụng kinh Phổ Môn vào các dịp chủ yếu như Cầu an. Cầu quốc thái dân an. Cầu khỏi bệnh. Cầu tai qua nạn khỏi. Cầu gia đạo bình an. Cầu mưa thuận gió hoà. Hoặc có thể tụng kinh Phổ Môn vào các dịp khác như Khánh hỷ. Lễ khai trường. Lễ khởi công. Lễ an vị Phật. Lễ mừng thọ, chúc thọ. Lễ đáo tuế. Lễ sinh nhật. Đây đều là những dịp đặc biệt trong đời sống con người. Có vai trò quan trọng giúp đời sống đi lên, phát triển hơn. 6. Cách trì tụng kinh Phổ Môn Bồ Tát Quan Thế Âm khởi đại nguyện cứu khổ cứu nạn cho chúng sinh. Nên khi gặp khổ nạn con người thường xưng niệm danh hiệu ngài nhằm cầu mong sự an ổn. Sự tương giao giữa 2 tâm thức giúp chúng sinh đạt được sự an ổn. Để tụng kinh Phổ Môn đúng cách và hiệu quả cần lưu ý những điều sau 1. Tụng kinh Phổ Môn nên làm ở chùa hay ở nhà? Nếu như gia đình bạn có bàn thờ Phật ở nhà có thể thực hiện việc cầu an tại gia là tốt nhất. Trường hợp nơi ở chật hẹp, ồn ào, điều kiện không cho phép có thể tiến hành cầu an ở chùa. Dù là cầu an ở nhà hay ở chùa đều phải chuẩn bị thật chu đáo, trang nghiêm. Những vật cần thiết trong lễ cầu an phải có như hoa quả, hương đèn,… Chúng ta dâng cúng những gì, tốt hay xấu, nhiều hay ít,.. không quan trọng. Mà điều cốt yếu là mọi thứ từ chí thành, nghiêm cẩn trong khả năng cho phép. Bản Kinh Phổ Môn bán chạy trên thị trường 2. Chuẩn bị gì trước khi tụng kinh Phổ Môn? Để đạt hiệu quả thành công, trước khi tụng kinh Phổ Môn cần lau dọn, bày bàn thờ Phật trang nghiêm, sạch sẽ. Tốt nhất nên tự mình làm không sai bảo người khác. Trừ trường hợp những người tham gia chuẩn bị có tâm nguyện cầu an, là con cái trong gia đình. Sau đó, gia chủ đứng trước bàn thờ Phật chí thành lễ bái. Lúc này nghi thức cầu an chính thức bắt đầu. Tụng phẩm kinh Phổ Môn được trình bày rõ ràng, nghi thức trang nghiêm. 3. Những lưu ý khi tụng kinh Phổ Môn Để buổi tụng kinh Phổ Môn diễn ra thành công, đạt hiệu quả cao thì gia chủ cần lưu ý các điều sau Có thể tụng kinh theo bản dịch tiếng Việt để tạo hiệu quả tốt, hiểu được ý nghĩa của từng câu kinh. Cần tập trung hết sức, suy ngẫm về ý nghĩa của các câu kinh, tiếng kệ. Điều này giúp chúng ta hòa quyện với không khí trang nghiêm buổi tụng kinh. Từ đó thấm đẫm được ý nghĩa các câu kinh trong tâm trí. Chuẩn bị mọi thứ thật đầy đủ, cẩn thận, ăn mặc trang nghiêm. *** Tìm hiểu thêm Ấn Thiền, ấn Chuyển Pháp Luân là gì? Đặc điểm của Ấn Thiền, ấn Chuyển Pháp Luân Với các lưu ý trên giúp buổi tụng kinh Phổ Môn diễn ra theo đúng mong muốn, đạt hiệu quả cao. Qua những chia sẻ trên bạn hiểu được kinh Phổ Môn là gì? Đồng thời biết được ý nghĩa và nội dung của bài kinh này. Từ đó vận dụng một cách khoa học. HƯỚNG DẪN "TỰ HỌC TỤNG NIỆM VÀ GIẢI NGHĨA PĀLI 11 BÀI KINH HỘ TRÌ - PARITTA SUTTA"Cùng Tam Qui và Ngũ Giới mọi Phật tử phải học thuộc lòng bằng tiếng Pali Chịu khó học từ từ mỗi ngày một vài câu, và áp dụng thực hành vào đời sống, sau một vài năm sẽ thấy khác hẳn so với những người không học đều, thực hành đều chánh kiến, tín tâm, chánh tinh tấn, chánh niệm tăng trưởng, sẽ bớt dần đi tham sân si và sẽ an nhiên tự tại dần từng bước trước vui buồn của cuộc trọng cốt tủy của thành công là đều đặn học tập và thực hành hàng ngày, chứ không chỉ chờ tới khóa học, khóa cho oai đức Tam Bảo hộ trì cho đạo hữu cùng tất cả mọi người trong gia đình luôn được khỏe mạnh, thành công, an vui, và hạnh phúc, luôn tinh tấn làm lành, lánh dữ, thanh lọc tâm, vun bồi phước thiện tạo duyên lành giúp sớm giác ngộ, giải thoát hoàn toàn và vĩnh viễn mọi khổ đau, phiền não, chấm dứt luân hồi sinh tử, đạt được hạnh phúc thật sự, tự do thật sự - Niết bàn. Trong tâm từ, Tỳ Khưu Viên Phúc Sumangala-🍀 11 Bài kinh Hộ Trì Parittapāli được lần lượt được đọc tụng bởi Thiền sư Chủ trì Thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery Yangon Myanmar - Ngài Sayadaw U Dammikabhivamsa, và được phân tích từ ngữ và ý nghĩa của từng câu Pāli bởi Sumangala Bhikkhu Viên Phúc dựa theo tài liệu soạn dịch bởi Tỳ Khưu Đức Hiền, NXB Tôn giáo 2011 "Kinh Hộ Trì - Phân tích từ ngữ Pali"PDF - - BÀI HƯỚNG DẪN "TỰ HỌC TỤNG NIỆM VÀ GIẢI NGHĨA PĀLI" có tại các links dưới đây 🎯 YOUTUBE PLAYLIST AUDIO MP3 & YOUTUBE CHO TỪNG NGÀY❶ CHỦ NHẬT PARITTA- PARIKAMMA – BỐ CÁO KINH HỘ TRÌMAṄGALA SUTTA – KINH HẠNH PHÚCMP3 Sayadaw Tharmanaykyaw Câu 1 – 6 Câu 7 – 9 Câu 10 – 11 Câu 12 – 13 Câu 14 – 16 Câu 17 - 19 Câu 20 – 24 THỨ HAI RATANA SUTTA – KINH CHÂU BÁUMP3 Sayadaw Tharmanaykyaw Câu 25 Câu 26 – 29 Câu 30 – 32 Câu 33 – 35 Câu 36 – 39 Câu 40 – 45 THỨ BA METTA SUTTA – KINH TỪ BIMP3 Sayadaw Tharmanaykyaw Câu 46 – 49 Câu 50 – 53 Câu 54 – 57 THỨ TƯ KHANDHA SUTTA – KINH KHANDHA MORA SUTTA – KINH CON CÔNG VATTA SUTTA – KINH CHIM CÚTMP3 Sayadaw Tharmanaykyaw Câu 58 – 65 Câu 66 – 71 Câu 72 – 77 Câu 66 05-06 Mora-Vattasutta THỨ NĂM DHAJAGGA SUTTA – KINH NGỌN CỜMP3 Sayadaw Tharmanaykyaw Câu 78 – 81 Câu 82 – 86 Câu 87 – 96 Câu 97 – 101 THỨ SÁU ĀṬĀNĀṬIYA SUTTA – KINH ĀṬĀNĀṬIYAMP3 Sayadaw Tharmanaykyaw Câu 102 – 107 Câu 108 – 113 Câu 114 – 117 Câu 118 – 125 Câu 126 – 131 THỨ BẢY AṄGULIMĀLA SUTTA – KINH NGÀI AṄGULIMĀLA BOJJHAṄGA SUTTA – KINH GIÁC CHI PUBBAṆHA SUTTA – KINH BUỔI SÁNGMP3 YOUTUBE Sayadaw Tharmanaykyaw Câu 132 – 134 Câu 135 – 137 Câu 138 – 140 Câu 141 – 145 Câu 146 Câu 146 – 152 Câu 153 – 158 Câu 159 – 164 Bản tụng đọc Pali 11 bài kinh hộ trì paritta xem tại bên dưới bài viết này và tại link này khảo đọc Pali 11 bài kinh hộ trì parittaNgài Đại Trưởng Lão Thiền Sư Paauk Sayadaw Đại Trưởng Lão Thiền Sư Sīlānanda Sayadaw 🍀 MƯỜI MỘT MAHA PARITTA SUTTA-Những bài kệ bảo hộ của Đạo Phật trong phương thức truyền miệng được gọi là Gatha Kệ hay Mantra chú, sự tụng niệm mantra được tin rằng sẽ đem lại kết quả mong muốn nhờ phát triển sự bảo hộ hiệu quả hoặc bằng cách thúc bách sự trợ giúp của các thánh thần siêu Paritta hay Rakkhana là những bài nguyện nguyên thuỷ cầu sự thịnh vượng, an lành và hạnh phúc của tín đồ Phật giáo ở Miến Điện, nhưng dần dần các Paritta Gatha trở thành thần chú của Phật là một thuật ngữ kỹ thuật bắt nguồn từ gốc TA - RAKKHATTI có nghĩa là sự cứu hộ, bảo vệ hay canh chừng; với tiếp đầu ngữ PARI - toàn khắp SAMANTATO, có nghĩa từ mọi hướng. Do đó, các Paritta có thể được diễn giải là những chú bảo hộ của Phật giáo hoặc Mantra Raksha của Phật có nghĩa là lớn, cao, vĩ đại, hùng mạnh, và dồi dào. Do đó tuyển tập vĩ đại gồm những thần chú Phật giáo ở Miến Điện thường được gọi là MAHA PARITTA SUTTA Đại hộ trì kinh.Trong các loại Kinh bảo hộ, quan trọng nhất là tuyển tập mười một Hộ Trì Kinh Paritta Sutta. Những Paritta Sutta này được tụng niệm một mình hoặc tập thể nhiều người. Một số hoặc tất cả những Kinh sutta này được tụng niệm như một phần của những nguyện cầu thông thường của Phật tử, nhằm chống lại những hiểm nguy và tai hoạ, dù chúng tự nhiên hay siêu nhiên. Phòng tránh những biến cố không hay đang diễn ra và vô hiệu hoá các rủi ro từng xảy ra là hai mục đích chính của việc tụng niệm trong những dịp đặc điều quan trọng cần phải lưu ý là mỗi Paritta Sutta có một chức năng đặc trưng, mặc dù bất cứ paritta nào cũng có thể được tụng niệm như một biện pháp bảo hộ thông thường. Do đó, ví dụ như Angulimala paritta được tụng trong trường hợp sinh khó; Khandha paritta đề phòng việc rắn cắn và nhiễm độc; Vatta paritta nhằm dập tắt ngọn lửa hung dữ; Mora paritta nhằm giải thoát một người khỏi ngục tù; Bojjhanga paritta nhằm chữa trị các bệnh nhân bị bệnh nguy kịch vv..Tất cả mười một Paritta Sutta được quy định trong chương trình tu học Truyền thống Miến Điện và những học giả trẻ, những người mới nhập đạo, người mới tu và những người trợ lễ Kyaungtha, Pothudaw, Koyin và Upazin được rèn luyện để ghi nhớ chúng một cách trực tiếp từ nguyên bản Pali. Tất cả những bản văn này được chuyển dịch sang ngôn ngữ bản địa Miến Điện, và mỗi người Miến Điện trưởng thành được coi như đã hiểu tất cả hoặc một số Kinh này khi các nhà tu lớn tuổi tụng niệm chúng bằng tiếng Pali nhân danh những gia chủ trong các buổi lễ của làng. Những thực hành tôn giáo này vẫn còn hợp thời trong xã hội Phật giáo Miến Điện hiện Phật tử Miến Điện tỏ lòng tôn kính mười một Mahaparitta Sutta này y như họ tôn kính Tam Tạng Kinh Tipitaka Pali. Mặc dù sau này có nhiều sự dẫn giải và thêm thắt trong việc soạn thảo Paritta bởi những bậc hiền triết uyên bác thời xưa, tất cả những Sutta này đều chủ yếu được đặt nền trên những kinh Kinh Hạnh Phúc Mangala sutta đặt nền trên Tiểu bộ tập Khudda- kapatha và các bản văn Kinh tập Sutta- nipata trong Tiểu bộ kinh Khuddaka nikaya.⒉ Kinh Châu Báu Ratana sutta đặt nền trên Tiểu Bộ Tập Khudda- kapatha và bản văn Kinh Tập Sutta- nipata trong Tiểu bộ Kinh Từ Bi Metta sutta đặt nền trên Tiểu Bộ Tập và bản văn Kinh Tập trong Tiểu Bộ Kinh Ngũ Uẩn Khandha sutta được dựa trên Tiểu phẩm thuộc Luật Tạng Vinaya pitaka Culavagga, những bản văn Bổn sanh truyện Jataka và TăngChi Bộ Kinh Anguttaranikaya.⒌ Khổng Tước Kinh Mora sutta dựa trên Bổn sanh truyện trong Tiểu Bộ Luân Hồi Kinh Vatta sutta dựa trên Bổn sanh truyện và sở Hành Tạng Cariyapitaka trong Tiểu Bộ Kinh Ngọn Cờ Dhajagga sutta dựa trên Tương Ưng Bộ Kinh Samyutta nikaya, bản văn Tương Ưng Sakka Sakka Samyutha.⒏ Kinh Atanatiya sutta dựa trên bản văn Pathikavagga thuộc Trường Bộ Kinh Digha- nikaya- Pathikavagga và bản văn Kinh Pháp Cú trong Tiểu Bộ Angulimala sutta, Vô Não Kinh dựa trên bản văn Majjhimapannasa trong Trung Bộ Kinh Majjhima nikaya- Majjhimapannasa.10. Kinh Thất Giác Chi Bojjhanga sutta dựa trên bản Tương Ưng Kinh - Đại Phẩm Samyutha nikaya - Mahavagga Samyutta. buổi sáng tốt lành Pubbanha sutta dựa trên Tiểu Bộ Tập Khuddaka patha, bản văn kinh tập Sutta- nipata trong các bản Tiểu Bộ Kinh Khuddaka nikaya và Tăng Chi Bộ Kinh Anguttara nikaya.[Trích Cẩm Nang tụng niệm của Phật tử Miến Điện]- 🍀 NGHE VÀ TỤNG KINH HỘ TRÌ PARITTA NHƯ THẾ NÀO CHO ĐÚNG CÁCH ?-Kinh Hộ Trì Parittapāḷi là Kinh bảo vệ và mang lại những kết quả tốt đẹp. Điều quan trọng là những bài Kinh này được tụng đọc hay lắng nghe một cách đúng đắn. Có một vài điều kiện để thành tựu cả việc tụng đọc và lắng nghe nhằm mang lại những lợi ích của Kinh Paritta. Thật vậy, về người tụng đọc cần phải đầy đủ ba điều kiện và về người lắng nghe cũng có ba điều kiện sauI. Ba điều kiện cho người tụng đọc là1. Họ phải được học và tụng đọc những bài Kinh Hộ Trì Parittapāḷi này một cách chính xác và đầy đủ mà không bỏ Họ phải hiểu được ý nghĩa của các bài Kinh Hộ Trì Parittapāḷi khi được tụng Họ phải tụng đọc với tất cả trái tim đầy hoan hỷ và với từ Ba điều kiện cho người lắng nghe Kinh là1. Là người không phạm một trong năm trọng tội - Giết mẹ Mātughātaka; - Giết cha Pitughātaka; - Giết bậc A-la-hán Arahantaghātaka, - Làm chảy máu Phật Lohituppādaka. - Và chia rẽ Tăng chúng Saṅghabhedaka.2. Là người không có “Tà Kiến - Micchādiṭṭhi" như việc không tin Nghiệp Kamma và Nghiệp quả Kammavipāka.3. Là người lắng nghe những bài Kinh bằng sự tự tin ở kết quả từ việc nghe Kinh, thì sẽ tránh khỏi các sự nguy hiểm và mang lại kết quả khi những điều kiện này được đầy đủ, thì người này mới thành tựu những lợi ích của Kinh vậy, điều quan trọng là khi Kinh Paritta được tụng đọc và mọi người nên lắng nghe với niềm tin, sự kính trọng và bằng sự chú nữa, việc tụng Kinh Paritta được phát sinh 2 lợi ai tụng đọc như những người cho một cái gì đó; và những người lắng nghe giống như những người tiếp nhận một điều gì đó đã được họ không nhận lĩnh những gì đã được cho thì họ không nhận được gì. Nói rõ hơn, nếu người nào không lắng nghe việc tụng đọc, mặc cho những người khác tụng lên và người này làm các việc khác; thì họ chắc chắn không nhận những gì đã được cho, do vậy họ sẽ không thành tựu được từ những lợi ích của việc nghe kinh......“Này các Tỳ khưu, hãy học Hộ Kinh Āṭānāṭiya! Hãy học thuộc lòng Hộ Kinh Āṭānāṭiya! Hãy nắm giữ Hộ Kinh Āṭānāṭiya! Này các Tỳ khưu, liên quan đến lợi ích là Hộ Kinh Āṭānāṭiya cho các vị Tỳ khưu, các Tỳ khưu ni, các cận sự nam và các cận sự nữ được bảo vệ, được hộ trì, không có bị xâm hại, được sống an vui”.Majjhimanikāya, Pāthikavaggapāḷi, bài kinh số 9, trang Myanmar 173.From FB Chánh pháp Hà nội- 🍀 103. PHẢI CHĂNG TỤNG KINH PARITTA THẬT KHÔNG CÓ LỢI ÍCH? Mi Tiên Vấn Đáp Đức Thế Tôn có dạy rằng "Dù trong động thẳm hang sâu, trong những bảo điện kiên cố với tường sắt vây quanh, giữa hư không bao la, sâu thẳm, giữa đáy đại dương hoặc trong lòng muôn trượng của quả đất - chẳng có nơi nào thoát khỏi lưỡi hái của tử thần!". Điều ấy là chân lý chắc thật phải không đại đức?- Chẳng có lời nào của Đức Đại Giác là không hợp với chân lý, với sự thật!- Nếu là vậy thì tại sao Đức Tôn Sư lại nói rằng, người nào tụng kinh hộ trì an lành kinh Paritta thì sẽ thoát khỏi uy lực của tử thần? Rõ ràng là lời thuyết này đâm xóc lời thuyết kia? Rõ ràng là lời thuyết sau phá vỡ chân lý của lời thuyết trước? Và, chẳng lẽ nào Đức Đại Giác lại nói ra hai lời nghịch nghĩa như mâu với thuẫn, như nước với lửa, như sáng với tối như thế? Đại đức phải có bổn phận và trách nhiệm phá nghi cho người học Phật thời hậu lai và chống đỡ búa rìu của phường ngoại giáo nhiều môi lắm mép!- Dĩ nhiên là phải thế, tâu đại vương! Và dĩ nhiên là Đức Đại Giác chẳng bao giờ nói hai lời nghịch nghĩa! Sở dĩ có sự hiểu lầm là vì người ta chưa hiểu năng lực của kinh hộ trì an lành đó thôi!- Xin đại đức giảng cho nghe về năng lực Thưa vâng, đại vương, ngài nghĩ thế nào, ví như có một cái cây già cỗi đã nhiều năm, ruột bộng, bên trong hoàn toàn khô kiệt nhựa và mủ; nghĩa là cái cây ấy không còn sự sống, nó đã chết, đã chấm dứt tuổi thọ. Có người khởi lên vọng tưởng muốn cho cây được sống lại, được đâm chồi nẩy lộc; bèn tưới nước, thêm phân; ngày nào cũng siêng năng tưới tắm, bảo vệ, giữ gìn ... những mong cái cây ấy được sống lại! Đại vương nghĩ thế nào, với nỗ lực của người ấy, chăm chuyên tưới nước, săn sóc nó từ ngày này sang ngày nọ - cái cây chết khô kia có vì vậy mà nẩy tược, đâm chồi, mọc lá xanh tươi trở lại hay không?- Thưa, thật là việc làm vô ích của người ngu; cây đã chết rồi, đã chấm dứt tuổi thọ rồi thì chẳng có năng lực gì, nỗ lực nào làm cho sống lại được!- Cũng tương tự như thế đó, tau đại vương! Một người khi mà thân xác khô kiệt, tim đã ngừng đập, máu không còn chảy nữa, sự sống đã lìa khỏi thân xác, tuổi thọ đã cáo chung; thì dù tụng kinh với nhiều oai lực như kinh hộ trì an lành Paritta, tụng năm biến, ngàn biến, hay tụng cả bỏ ngủ quên ăn, không vì vậy mà người kia sống lại được, tâu đại vương! Khi mà tử thần đã khua lưỡi hái cướp đi sanh mạng của chúng sanh rồi thì chẳng còn uy lực nào chống đỡ hoặc ngăn cản được đội binh sấm sét và bất khả chiến bại của thần chết, tâu đại vương!Đức vua Mi-lan-đà mỉm cười- Thế là đại đức đã đồng ý với trẫm, là tụng kinh Paritta thật vô ích, kinh Paritta ấy chẳng thể nào ngăn cản uy lực của tử thần được!- Đúng thế, nhưng mà đại vương hãy nhẫn nại thêm một tí Thưa vâng,- Đại vương! Ví như có một bệnh nhân thọ bệnh trầm kha, cả lục phủ ngũ tạng đều nát bét, tim và mật đều không còn làm việc. Có một vị lương y đại tài với quyết tâm chữa trị cho bằng được, bao nhiêu thuốc thang, kinh nghiệm, phương dược bí truyền đều mang ra hết. Đại vương nghĩ thế nào, người kia có chút may nào sống lại chăng?- Bệnh nhân ấy chuẩn bị quan tài là vừa, thưa đại đức!- Đúng thế, khi sự sống đã rời khỏi thân, khi thọ mạng đã bước ra khỏi cửa - thì việc làm của vị lương y trứ danh kia chẳng khác việc làm của người điên! Lúc ấy, diêm chúa và tử thần ái ngại nhìn vị lương y rồi nói rằng "Sanh mạng của người kia đã ở trong tay chúng ta rồi, ngươi muốn tụng kinh Paritta để hộ trì an lành và thọ mạng cho y thì chẳng khác nào phỉ báng Đức Phật và phỉ báng cả kinh Paritta!".- Hay lắm! dí dỏm lắm! Thế là thêm một lần nữa, đại đức đã đồng ý với Là vậy mà không là vậy, tâu đại vương! Xin ngài hãy nhẫn nại cho một tí nữa!- Xin sẵn lòng!Nghỉ hơi một lát, đại đức Na-tiên nói tiếp- Đại vương, ví như người điền chủ kia có một đám ruộng xanh tốt, đến thời, hạt lúa vàng nặng trĩu đầy cành. Nhưng vì tâm tham, người điền chủ muốn năng suất lúa phải bội thu hơn nữa, nên ngày nào y cũng thêm nước, rải phân! Đại vương nghĩ thế nào, với việc làm của người điền chủ, có vì thế mà hạt lúa nảy sanh thêm được chăng?- Thật không Cũng dường thế ấy, đại vương! Cây lúa già hạt trĩu đầy cành, vàng óng, là báo hiệu cây lúa sắp chết. Con người khi mà thân xác đã già, thọ mạng sắp ngưng dứt thì dẫu có thêm nước thêm phân, tụng kinh Paritta thảy đều vô ích, thọ mạng của người ấy không thể kéo dài ra, phát triển thêm được Trẫm hoàn toàn đồng Trở lại với các trường hợp trên thử xem. Ví dụ là cái cây cằn cỗi do thiếu phân, thiếu nước; nghĩa là tuổi thọ chưa chấm dứt, sự sống hãy còn; nếu ta chăm bón và nước nôi đầy đủ thì cái cây kia chắc hẳn là phải xanh tươi, phát triển cành lá sum suê chứ, đại vương?- Đích Cũng vậy là một người sanh mạng chưa chấm dứt, sự sống vẫn còn, nhưng do tiều tụy héo mòn bởi phiền não, bởi nhiều sự tai hại, não hại mà ảnh hưởng đến thân và tâm. Nếu kẻ ấy không có đức tin, hoàn toàn đổ sụp tinh thần, hoàn toàn tuyệt vọng - thì tử thần có dễ dàng lê bánh xe của thần chết đến để nghiền nát sinh mệnh của người kia không, hở đại vương?- Chắc chắn là vậy rồi!- Nhưng trái lại, nếu người ấy có quy y, tinh thần được khởi động để có niềm tin nơi Tam bảo, tin vào oai lực kinh Paritta có thể ngăn ngừa được thần chết, nên không mỏi mệt tụng kinh Paritta - thì thần chết có làm được gì kẻ kia không, nếu thọ mạng và sự sống ông ta hãy còn?- Lúc ấy thì có thể thoát khỏi lưỡi hái của diêm Thế kinh Paritta lúc ấy có thật sự lợi ích không hở đại vương!- Thật sự có lợi ích!- Đại vương, thế là đến ngang đây, đại vương đã tự bác bỏ câu phát ngôn đầu tiên của mình rồi!Đức vua Mi-lan-đà suy nghĩ hồi lâu- Có thể có một chút gì đó khá đúng. Nhưng ngài có thể cho nhiều ví dụ nữa để trẫm tiếp tục suy gẫm xem?- Vâng! Nếu có người bệnh, bệnh không nặng lắm - nếu uống đúng thuốc, đúng liều lượng, biết kiêng cử thì bệnh sẽ lành chứ, đại vương?- Vâng,- Và khi ấy, thuốc ấy thật sự lợi ích chứ?- Vâng!- Một người khi có bệnh chút ít, tuổi thọ chưa chấm dứt, nếu người ấy có quy y Tam bảo, có đức tin vững chắc mà tụng kinh Paritta - thì có ngăn được tử thần không, đại vương?- Có thể được! Vì có lòng tin nên kinh Paritta sẽ phát sanh năng lực!- Thế là đại vương đã cùng chấp nhận quan điểm, là tụng kinh Paritta phát sanh năng lực rồi!- Vâng, trẫm chấp nhận! Thế thì kinh Paritta chỉ hộ trì được những người có đức tin, những người thọ mạng chưa chấm dứt mà thôi, phải thế?- Thật là chính xác, tâu đại vương! Cho nên kinh Paritta có nghĩa là "kinh hộ trì an lành"! Hộ trì nghĩa là bảo vệ, che chở! Bảo vệ và che chở những người có đức tin, những người còn thọ mạng, nên ngăn chặn được tử thần không cho đến sớm! Chứ không phải kinh Paritta có năng lực bảo vệ và che chở những người không có đức tin, những người thọ mạng đã chấm dứt, tâu đại vương!- Bây giờ thì trẫm hoàn toàn hiểu rồi!- Đại vương, quả thật vậy, những người có đức tin nơi Tam bảo, có đức tin vào năng lực kinh Paritta, tin về những đức lành của kinh Paritta; dốc lòng trì tụng kinh Paritta thì có thể tiêu trừ tất cả bệnh tật, tai ương, hoạn nạn; lại có công năng hộ trì an lành, ngăn ngừa được lưỡi hái của tử thần là điều chắc thật!- Đại đức có bằng cớ chăng?- Thưa, có. Tại thành Vesàli, đại đức Ànanda đã tụng kinh Paritta, cả đêm, trọn ba vòng thành; tất cả chư thiên trong nhiều cõi giới ta bà đều hoan hỷ, và sau đó tất cả sự kinh sợ như bệnh dịch, phi nhơn và sự đói khát của nhân dân trong thành Vesàli đều được tai qua nạn khỏi!- Trẫm cũng có đọc qua đoạn kinh ấy, sau đó, dường như có một trận mưa lớn nên nhân dân thoát khỏi nạn dịch hoành hành, nhờ mưa lớn nên mùa màng ruộng vườn tránh khỏi cái khô hạn! Hết dịch, hết đói cũng vì thế. Còn nhờ sao mà phi nhơn hết quấy phá nữa thì trẫm không Chính nhờ sự mát mẻ, an lành từ oai lực kinh Paritta nên các trạng thái tâm nóng nảy, hung dữ ... lắng dịu lại, tâu đại vương!- Rất là chí lý. Nhưng oai lực kinh Paritta còn diệu dụng nào kỳ lạ nữa chăng?- Vâng, có, tâu đại vương! Các vị Thánh Tăng, Cao Tăng thường truyền tụng rằng, nếu chuyên trì tụng kinh Paritta thì rắn độc phải lặng lẽ cúi đầu bỏ đi, không dám có ý định cắn mổ nữa. Kẻ trộm vừa giơ gậy muốn đánh, nghe kinh Paritta, phải dịu dàng bỏ thỏng tay xuống. Voi số mạch nổi cơn dục rất hung dữ, chạy đến muốn chà đạp người, nghe kinh Paritta, chúng sững lại, hiền lành ngoan ngoãn bỏ đi. Dùng lửa cháy cực mạnh đốt người - đang trì tụng kinh Paritta, lửa ấy không hại người ấy được. Dùng thuốc độc cũng không hại người tụng kinh Paritta . Thật lạ lùng làm sao!- Chưa đâu đại vương! Lại có trường hợp một con công quyết tâm tụng kinh Paritta để tự bảo vệ mình, có người thợ săn kiên trì đơm bẫy tới bao nhiêu năm cũng không bắt được. Đến khi con công ấy sầu muộn vì luyến ái một con công mái mà quên không tụng kinh Paritta, trong một ngày thôi thì đã bị dính bẫy người thợ Trẫm cũng có biết câu chuyện ấy, nói tóm lại là kinh Paritta có năng lực bảo vệ, hộ trì; nhưng trẫm thắc mắc là kinh ấy bảo vệ, hộ trì cho tất cả chúng sanh, tất cả mọi người hay cho một loài, một nhóm, một số người nào đó thôi?- Không thể hộ trì cho tất cả Tại sao thế, đại đức?- Đại vương, ngài nghĩ thế nào, vật thực có hộ trì cho sanh mạng tất cả chúng sanh chăng?- Thưa, có người hộ trì được, có người không Tại sao lại như vậy?- Ví như có người ăn vật thực quá độ, chất lửa trong bao tử không thể tiêu hóa được, sẽ đầy hơi tức bụng mà chết. Trường hợp ấy gọi là vật thực không thể hộ đức Na-tiên hỏi lại- Thế thì vật thực không thể hộ trì sanh mạng chúng sanh chỉ có hai nguyên nhânThứ nhất, thọ dụng vật thực quá hai, do chất lửa trong bao tử non nên không tiêu hóa vật thực Đúng như thế, thưa đại đức!- Vật thực vốn là món nuôi sanh mạng chúng sanh, nhưng bởi lẽ chúng sanh tham ăn tham uống quá độ, không biết thọ dụng chừng mực, vừa phải - nên nó trở thành thủ phạm giết hại sanh mạng chúng sanh, phải vậy không đại vương?- Thật là chính xác!- Kinh Paritta cũng như vật thực vậy, tâu đại vương! Kinh Paritta có người hộ trì được, có người không! Những người mà kinh Paritta không thể hộ trì được có ba lý do sauMột là, do năng lực nghiệp ác cản là, do nhiều phiền não phát sanh ở trong là, do người đọc tụng mà không có đức tin, không trì chí, không quyết tâm, chỉ tụng đọc vẹt nơi miệng!Đấy là ba cản trở lớn làm cho Paritta không thành tựu, tâu đại vương!- Như vậy là do chính lỗi lầm, sái quấy của người tụng đọc chứ không phải do kinh Paritta!- Đúng thế, tâu đại vương! Vật thực cũng như kinh, vốn không có tội Đại đức có khả năng cho ví dụ về điều ấy không?- Thưa được! Ví như có bà mẹ sanh đứa con một, biết bao công lao ẵm bồng, bú mớm, dọn phân, dọn nước tiểu. Lớn hơn chút nữa, lại phải áo quần, trang điểm, giáo dưỡng, dạy bảo nhiều bề. Tuy nhiên, giả dụ như sau này đứa con sinh hư, phạm tội với luật pháp. Người mẹ đau khổ, tìm cách đến công đường cố xin ân xá tội cho con! Tâu đại vương, nếu là đại vương thì đại vương có xá tội cho người con ấy không?- Người mẹ ấy cũng đáng thương, nhưng luật pháp nghiêm minh, nếu tha thứ cho một người thì nhân dân sẽ khinh nhờn mà phạm nhiều tội khác Vâng, như thế có nghĩa là ai làm nấy chịu, nghiệp ai kẻ ấy phải thọ quả báo! Người mẹ kia không thể xin tội cho con như thế nào - thì kinh Paritta cũng không thể hộ trì cho những người đã bị ba lý do nêu trên cản ngăn!Đến đây, đức vua hết lòng khen ngợi- Quả là biện tài. Quả là đại đức có khẩu ngôn thiện xảo. Cách trả lời với nhiều ví dụ, so sánh của ngài làm cho càng lúc chính đề càng thêm sáng tỏ. Hoài nghi đã chấm dứt. Mắt mờ đã được sáng. Lưới tà kiến đã được tháo gỡ. Trí tuệ của đại đức thật là siêu việt Không dám! Với những câu hỏi của đại vương, bần tăng cũng toát mồ hôi khi cố đưa ra những kiến giải non nớt, nông cạn, mong đại vương hỷ xả cho!Đức vua Mi-lan-đà mỉm cười- Không cần thiết phải khiêm tốn như thế, đại đức! Chúng ta đối thoại với nhau, ngay từ đầu đã xác định là cách đối thoại của bậc trí giả mà! Vậy khách sáo với nhau làm Na-tiên cũng mỉm cười ý I. BÀI HỌC 1. Định Nghĩa - Tụng kinh là đọc thành tiếng và có âm điệu hoặc đọc thầm những lời Phật dạy một cách thành kính. - Trì chú trì là nắm giữ, nhiếp niệm. Chú là lời bí mật của chư Phật. Trì chú là nhiếp tâm vào những bài thần chú. - Niệm Phật Niệm là nhớ nghĩ. Niệm Phật là nhớ nghĩ danh hiệu, hình ảnh và đức hạnh của chư Phật. 2. Ý nghĩa tụng kinh, trì chú, niệm Phật a. Ý nghĩa tụng kinh - Giúp cho chúng ta nhớ những lời Phật dạy để thực hành - Tụng kinh cho tâm hồn yên tịnh, trí tuệ mở bày. b. Ý nghĩa trì Chú - Chú có công năng phi thường, diệt trừ tất cả chướng nạn sâu dày. - Trì Chú giúp tâm trí được khai thông. c. Ý nghĩa niệm Phật - Niệm Phật để phá trừ tạp niệm, thanh tịnh tâm hồn, chuyển hóa nghiệp chướng. - Niệm Phật để cầu được vãng sanh. 3. Phương pháp tụng kinh, trì chú, niệm Phật - Tắm rửa, súc miệng sạch sẽ, mặc áo trang nghiêm, đến trước bàn thờ thắp hương đảnh lễ rồi nhất tâm tụng niệm. - Tụng kinh đọc lớn tiếng, rõ ràng từng câu từng chữ, để tâm vào lời kinh tiếng kệ. Có thể tụng chuyên nhất 1 bộ kinh, hoặc tụng hết bộ kinh này rồi mới qua bộ kinh khác. - Trì chú và niệm Phật đọc lớn hoặc đọc thầm, phải nhiếp tâm vào câu thần chú hay danh hiệu Phật. Nên trì chuyên nhất vào 1 câu thần chú, niệm chuyên nhất 1 danh hiệu Phật. - Tùy thời gian thích hợp mà ta tụng niệm theo thời khóa. Hoặc bất cứ ở đâu, lúc nào cũng có thể tụng kinh, trì chú, niệm Phật, cốt yếu tâm phải thanh tịnh, chuyên nhất. 4. Kết luận Tụng kinh, trì chú, niệm Phật là những phương pháp tu tập giúp cho 3 nghiệp được thanh tịnh. Khi thực hành phải nhiếp tâm, dứt bỏ mọi tạp niệm. Chỉ cần thực hành chuyên nhất một trong 3 phương pháp này, có thể giúp chúng ta giải thoát khổ đau ngay hiện tại. II. LỜI KHẤN NGUYỆN Kính lạy Phật! Giáo pháp của Ngài đã giúp con mở rộng trái tim để tiếp nhận tuệ giác, tình thương. Con nguyện tu tập, nhất tâm tụng niệm, chuyển hoá thân tâm và truyền trao nguồn giáo lý này đến với mọi người, cho hết thảy đều được an vui. III. CÂU HỎI CHIA SẺ 1. Tụng Kinh là gì? Ý nghĩa việc tụng kinh? 2. Trì chú là gì? Ý nghĩa việc trì chú? 3. Niệm Phật là gì? Ý nghĩa việc niệm Phật? 4. Cho biết phương pháp tụng kinh, trì chú, niệm Phật? 5. Kể tên một vài kinh, chú, danh hiệu Phật mà chúng ta thường tụng niệm? IV. SINH HOẠT 1. Bài hát NIỆM PHẬT DI ĐÀ 2. Hương vị cuộc sống NHỮNG HẠT ĐẬU BIẾT NHẢY Tác giả Lâm Thanh Huyền Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng, có một bà lão sống cô độc. Chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời. Bà sống nhờ một thửa đất nhỏ trồng những hạt ngũ cốc. Vì cuộc đời đã trải qua nhiều gian truân từ nhỏ, bà lão cảm thấy nghiệp chướng trong người rất nặng, nên đã cố công tìm hỏi những người chung quanh phương pháp chuộc tội để cầu xin cho tâm hồn được bình yên. Cuối cùng thì bà được một người hành hương tốt bụng truyền cho một câu thần chú của Quán Thế Âm Bồ Tát. Câu thần chú gồm có sáu chữ Án Ma Ni Bát Di Hồng được gọi là Lục Tự Đại Minh Chú, có thể dùng để giải trừ những nghiệp chướng. Tội nghiệp cho bà già thôn dã đã dốt nát lại không biết chữ, trên đường về nhà bà lẩm bẩm cố học thuộc lòng, nhưng đã nhớ lôn cách phát Âm trở thành Án Ma Ni Bát Di Xanh. Để khích lệ cho việc đọc câu Kinh sám hối này bà bày ra hai cái chén, một cái chén không, còn một cái thì để đầy những hạt đậu nành. Mỗi khi đọc xong một câu thần chú, bà nhặt một hạt đậu từ trong chén đầy bỏ sang cái chén không, đến khi cái chén không đã chứa đầy đậu thì bà làm ngược trở lại. Bà lão đã không ngừng nghỉ, thành tâm tụng niệm suốt 30 năm. Lòng thành kính của bà đã ứng hiện cho nên sau này những hạt đậu không còn cần đến bàn tay của bà nhặt lấy, cứ một câu thần chú vừa được phát Âm ra thì một hạt đậu tự động nhảy sang cái chén bên cạnh. Bà lão thấy những hạt đậu tự động nhảy nhót, cộng hưởng với Âm điệu của câu thần chú thì biết rằng sự tu hành đã đúng đường và giai đoạn sám hối sắp sữa chấm dứt cho nên bà càng phấn khởi tụng niệm hăng say hơn. Hôm nọ có một vị Cao tăng từ Tây Tạng vân du qua đó, khi đi ngang qua chiếc lều tranh lụp sụp của bà, nhà Sư thấy có ánh hào quang tỏa ra rực rỡ. Vị Cao tăng này lấy làm kinh ngạc, ông nghĩ rằng bên trong chiếc lều tranh thế nào cũng có một vị chân tu đắc đạo. Ông vội vã ghé vào thăm hỏi. Bà lão lấy làm vui mừng khi thấy vị Cao tăng đến thăm, bà quỳ xuống đảnh lễ, mà miệng thì vẫn cứ tiếp tục lẩm bẩm câu thần chú Án Ma Ni Bát Di Xanh. Vị Cao tăng lấy làm ngạc nhiên vìkhông hiểu ánh hào quang rực rỡ mà ông thấy phía bên ngoài phát xuất từ nơi đâu? Ông lần lần hỏi thăm - Chẳng hay nữ thí chủ tu luyện bao nhiêu năm rồi? Ở đây còn có ai khác nữa không?. - Thưa Ngài, ở đây chỉ có một mình tôi sống cô độc hơn ba mươi năm nay. Bà lão đáp. - Thật tội nghiệp, bà ở một mình chắc buồn lắm nhỉ? - Không đâu, tuy chỉ ở một mình nhưng hàng ngày tôi tu hành và tụng Kinh sám hối để kiếp sau có thể hưởng được nhiều phúc đức của kiếp này, nhờ vậy mà tôi không cảm thấy buồn khổ. Nhất là từ lúc được một người hảo tâm chỉ cho cách tu luyện thì tôi càng có can đảm để sống hơn. - Bà đang tu luyện Kinh sách nào vậy? - Ồ, tôi không biết chữ, cho nên chỉ tụng niệm duy nhất một câu thần chú Án Ma Ni Bát Di Xanh. Nhà sư thở dài tiếc nuối - Bà lão ơi, bà đã đọc sai câu thần chú đó rồi, phải phát âm là Án Ma Ni Bát Di Hồng mới đúng. Đến lúc này thì bà lão mới biết là đã đọc sai câu thần chú hơn ba mươi năm. Bà rất đau buồn vì sự nhầm lẫn trọng đại này, như vậy thì công trình 30 năm tụng niệm coi như xe cát biển đông. Tuy nhiên bà cũng cảm ơn sự cải chính của nhà Sư. - Dù sao thì Ngài cũng đã đính chính kịp lúc, bằng không thì tôi còn tiếp tục sai mà không biết cho đến bao giờ mới điều chỉnh cho đúng được. Nhà sư từ giã bà lão để tiếp tục con đường truyền đạo của ông. Bà lão lại tiếp tục công việc tụng niệm của bà mà lần này với câu thần chú mới Án Ma Ni Bát Di Hồng. Thế nhưng tâm tư của bà còn hỗn độn vì sự việc vừa rồi cho nên ý chí của bà không được tập trung. Mỗi câu thần chú của bà đã không còn làm cho những hạt đậu hứng khởi nhảy sang cái chén bên cạnh như lúc trước. Bà lão vừa tụng niệm mà nước mắt cứ tuôn rơi, bà thầm tiếc cho công trình tu luyện hơn ba mươi năm như trôi theo dòng nước vì đã đọc sai câu thần chú. Nhà Sư đi được một đỗi xa, ông ngoái đầu nhìn lại thì thấy căn nhà của bà lão không còn hào quang chói sáng. Bây giờ túp lều tranh hiện hình dột nát mà lại âm u buồn bã. Nhà Sư giật mình và nghĩ rằng chính ông đã làm hại người Phật tử này không còn tập trung được tư tưởng như lúc trước. Ông vội vã trở lại túp lều tranh và nói với bà lão rằng - Lúc nãy ta chỉ đùa với bà thôi, câu thần chú của bà tụng mới thật là đúng. - Nhưng tại sao Sư phụ lại dối gạt tôi như vậy? - Ta muốn thử xem lòng thành kính của bà đối với Tam bảo như thế nào vậy thôi. Từ nay về sau bà cứ tiếp tục tụng niệm y như cũ là phải phép rồi. - Cám ơn Phật, vậy mà con cứ tưởng rằng công lao 30 năm tụng niệm đã trôi theo dòng nước, đa tạ Sư phụ chỉ bày. Sau khi nhà Sư ra đi, bà lão lại tiếp tục công việc tụng niệm, mỗi một câu Án Ma Ni Bát Di Xanh được niệm ra thì tâm hồn bà rộn rã tươi vui và một hạt đậu tự động nhảy sang cái chén bên cạnh. Nhà Sư đi lên đến đỉnh núi, ông ngoái đầu nhìn trở lại thì thấy hào quang phát ra từ túp lều tranh của bà lão đã làm sáng rực cả một góc trời. CLB Hoằng Pháp Trẻ theo Tụng Kinh, trì Chú, niệm Phật là ba phương pháp tu hành đủ cả Sự và Lý. Dù tại gia hay xuất gia, dù tiểu thừa hay Đại thừa, tiêu cực hay tích cực, không ai có thể rời ba phương pháp Tụng Kinh, trì Chú và niệm Phật có ý nghĩa gì?Phật tử cần phải học tụng Kinh, niệm Phật và trì Chú để lời nói và việc làm phù hợp, mới có được kết quả tốt Kinh là đọc một cách thành kính những lời Đức Phật đã dạy trong kinh điển, hợp với chân lý và căn cơ của chúng sanh. Trì Chú là nắm giữ một cách chắc chắn lời bí mật của Chư Phật. Các bài chú đều có oai thần và công đức không thể nghĩ bàn, dứt trừ được nghiệp chướng, tiêu tai giải nạn và tăng trưởng phước huệ, nên cũng gọi là thần chú. Niêm Phật là tưởng nhớ danh hiệu Phật, hình dung Phật và đức hạnh của Phật, để luôn luôn cố gắng noi theo bước chân Phật giáo, người Phật tử, nếu chỉ thờ, lạy và cúng Phật, thì cũng chưa thể gọi là thuần thành. Người Phật tử thuần thành còn phải tụng Kinh, trì Chú và niệm Phật. Nếu bỏ qua ba phần sau này, thì ba phần trước là thờ, lạy và cúng khó có thể viên dung cả Sự và Lý là phần cao siêu khó thực hành, mà nếu chúng ta không tụng Kinh, niệm Phật để cho tâm hồn được sáng suốt, tỏ ngộ các lý lẽ sâu xa huyền diệu trong kinh điển, thì chúng ta không làm thế nào để đạt được 4 phép lạy thuộc về phép lạy gồm Phát trí thanh tịnh lễ, biến nhập pháp giới lễ, chánh quán lễ, thật tướng bình đẳng lễ và 5 món diệu hương để cúng Phật là Giới hương, Định hương, Huệ hương, Giải thoát hương, Giải thoát tri kiến nếu không thực hành được 4 phép lạy về Lý và cúng dường được 5 món diệu hương, thì sự lạy và cúng chỉ là phần “Sự” là phần hình thức. Vì thế, kẻ tín đồ khó có thể tiến được trên đường đồ phải niệm đủ Tam thế Phật– Niệm Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, là niệm Đức Phật hiện tại, cũng là Đức Phật Giáo chủ của chúng sinh.– Niệm Đức Phật A-Di-Đà, là niệm Đức Phật đã thành từ quá khứ xa xưa, mà cũng là Đức Phật tiếp dẫn chúng sinh về Cực Lạc.– Niệm Đức Phật Di-Lặc, là niệm Đức Phật vị miệng tụng Kinh, trì Chú, niệm Phật, tay gõ mõ, đánh chuông, lần chuỗi, thì tâm trí phải gột rửa hết bao ý nghĩ bất chính, những ham muốn đê hèn, và đạc vào dấy hình ảnh của Đấng Từ phải noi gương Ngài, mở lòng thương rộng lớn, nghĩ đến nỗi thống khổ của muôn loài và phát nguyện đem sức mình ra, ban vui cứu khổ cho tất khi thôi tụng niệm, trở lại tiếp xúc việc đời, thì phải làm thế nào cho những hành động của mình cũng được từ bi như tư tưởng và lời nói của mình Mục đích của việc niệm PhậtNiệm Phật để đưa đến sự nhất tâmLàm sao để ta áp dụng niệm Phật trong các vấn đề sinh hoạt hằng ngày. Khi ta đang làm một việc gì đó, không thể nào chúng ta vừa làm rồi miệng lại niệm Phật cùng một lúc được, có khi lại gây ảnh hưởng vậy, khi làm bất cứ việc gì, chúng ta tập trung nhìn nhận rõ, đâu là đúng, đâu là sai, đâu là cái cần phải gạt lọc, đó là ta đã sống trong giây phút của tỉnh thức rồi, việc này đồng nghĩa với việc chúng ta niệm Phật để được giải thoátNiệm Phật là để được giải thoát, vậy từ giải thoát là gì? Chữ giải có nghĩa là mở, thoát là ra, nhưng đôi khi chúng ta không hiểu rõ rồi lại nhìn chữ giải thoát này ở một mức độ cao siêu xa vời. Chúng sinh luôn bị Tam độc Tham – Sân – Si chi phối trong lòng, do đó việc niệm Phật là làm sao thoát khỏi sự ràng buộc của ba yếu tố như trong cuộc sống, ta làm ra đồng tiền, có nhiều thì tiêu nhiều, có ít thì tiêu ít, tùy vào khả năng có được mà chúng ta sử dụng hợp lý và không bị đòng tiền lôi cuốn bản thân mình vào những con đường tội lỗi khác. Ta sẽ không bị dính mắc và lệ thuôc vào nó, thì lúc này chúng ta đã thoát khỏi sự ràng buộc của tham và làm chủ bản thân mình, như vậy mới thật sự niệm Phật giải thoát ngay ở trong hiện tại này mà không tìm một sự giải thoát ở đâu xa thoát nằm ngay ở trong tâm thanh tịnh của mỗi người. Tâm của ta có sự an lạc, giải thoát tâm hồn thì ngay đó ta sống với thế giới thanh tịnh của chư Phật. Chúng sinh ai cũng có Phật tính sáng suốt, nhưng bị vô minh che lấp, nên không nhận ra được tự tính sáng suốt của mình. Vì vậy, việc niệm Phật giúp ta trở về bản thể thanh tịnh của chính mình. Có nhiều người cũng nghĩ rằng, niệm Phật để được Đức Phật tiếp dẫn về một thế giới nào đó. Điều này vô tình lại làm chúng ta thiếu đi niềm tin vững chắc vào khả năng tu tập của chính kinh Đức Phật dạy, ví như chúng ta trồng một cây nằm ở hướng tây thì khi gió đến, nó sẽ ngã theo chiều của hướng tây. Cũng thế, nếu như hằng ngày ta luôn vun bồi và tạo nhiều công đức lành thì kết quả an lạc sẽ đến với ta và khi mất thân này chúng ta sẽ được tái sinh vào một cảnh giới an giống như người ăn cơm nếu ăn một bát thì no theo một bát, nếu ăn nhiều thì no nhiều, nhưng tự thân họ cũng có lương thực để an lòng. Do đó, tùy vào mức độ mà ta tu tập nhiều hay ít thì tự thân sẽ được sinh vào cảnh giới thích hợp với quá trình công phu tu tập của Phật để được vãng sinhVãng sinh là sự kết thúc của cuộc đời này để sinh qua một thế giới khác, hay nói nghĩa rộng hơn, đó là cách chuyển hướng thay đổi từ cách sống này sang một lối sống như trước giờ ta sống trong sự giận hờn, buồn phiền và không làm chủ được tâm hồn. Nhưng khi hiểu được sân là nguyên nhân đưa đến sự đau khổ, lúc này chúng ta liền khắc phục sai lầm và thay đổi tích cực mạnh mẽ, đó là chúng ta đã chuyển đổi từ một cuộc sống sân hận thành một cuộc sống bao dung tha thứ, và đó cũng chính là vãng giống như một người ham hút thuốc nhưng khi phát hiện mình bị bệnh nên lập tức bỏ ngay sự ham muốn ấy, có nghĩa là người này đã thay đổi từ một thói xấu chuyển thành một đức tính tốt thì đó cũng gọi là vãng vậy, không cần phải chết mới được vãng sinh mà ngay trong đời sống hiện tại ta cũng đã được vãng sinh rồi. Vì vậy, vãng sinh là sự thay đổi từ những đức tính xấu ác của con người để trở về con đường thánh thiện, từ một người với thói quen đầy sự ích kỷ, nhỏ nhen trở thành một người có tấm lòng bao dung, độ lượng và cao hơn nữa đó là từ phàm phu bước lên một bậc của thánh giả tu tập, niệm Phật cần phải thực tập và áp dụng việc niệm Phật vào trong đời sống hằng ngày để chúng ta tìm được nguồn an lạc hiện thực và luôn luôn trong thế giới của Đức Phật, đoạn dứt những phiền não để trở về bản thể thanh tịnh vốn có của mình, và đó mới là mục đích cao cả của việc niệm thêm Niệm Phật là gì? Vì sao phải niệm Phật? Điều cần biết khi niệm PhậtTrích nguồn Trì tụng thần chú Chuẩn ề có rất nhiều lợi ích giúp tai qua nạn khỏi tật, bệnh tiêu trừ, tam nghiệp thanh tịnh, trừ ma chướng… Thần chú Phật Mẫu Chuẩn Đề là một thần chú nổi tiếng trong Phật giáo. Thần chú có thể giúp khai mở trí tuệ Bát Nhã và giúp người niệm gặp nhiều thuận lợi trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Chuẩn Đề, Phạn ngữ là Cundì, Cunïdïhi चुन्दी, dịch nghĩa là Năng hành, Thành thực hay Thanh tịnh. Năng hành nghĩa là Bồ tát có thệ nguyện rộng lớn, trí tuệ sâu xa, đầy đủ mọi năng lực để làm bất cứ việc gì cũng đều đem đến sự lợi ích cho chúng sinh. Thành thực có nghĩa Bồ tát có công năng vi diệu, từ nơi pháp Không tưởng quán ra pháp Giả, khiến chứng đắc cảnh giới Niết bàn, bạt trừ mọi vọng huyễn sinh tử. Thanh tịnh nghĩa là Bồ tát đã chứng đắc được bản tâm, khéo an trụ trong tự tánh thanh tịnh. Chuẩn Đề gọi đủ là Thất Câu Chi Phật Mẫu Chuẩn Đề. Theo “Nhị khóa hiệp giải” thì Câu chi nghĩa là trăm ức, Thất câu chi là bảy trăm ức, Phật mẫu là mẹ sinh ra chư Phật. Danh hiệu Thất Câu Chi Phật Mẫu Chuẩn Đề có nghĩa thời quá khứ đã có bảy trăm ức Bồ tát do tu pháp môn Chuẩn Đề tam muội mà chứng quả Vô thượng Bồ đề và chúng sinh đời sau muốn thành tựu Phật quả cũng phải nương theo pháp môn này để tu hành. Tin liên quan Sự linh ứng của Thần Chú Chuẩn Đề Phật Mẫu Nội dung và ý nghĩa Chuẩn Đề Thần Chú Những lợi ích khi trì tụng niệm Thần chú Phật Mẫu Chuẩn Đề Chú Chuẩn Đề Phật Mẫu Chuẩn Đề thần chú tiếng Phạn và Việt Hình tướng Bồ tát Chuẩn Đề Nay xin tuyên dương bửu tượng của đức Chuẩn Để ra đây, đặng cho những người mộ đạo chiêm ngưỡng và lễ bái, thì được phước vô lượng vô biên. Bửu tượng của ngài có nhiều vẻ quang minh tốt đẹp, đều chiếu diệu cả mình, còn thân tướng thì sắc vàng mà có lằn điển quang trắng. Ngài chỉ ngồi kiết già, trên thì đắp y, còn dưới thì mặc xiêm đều trọn một sắc trắng mà có bông, lại có đeo chuỗi anh lạc và trên ngực có hiện ra một chữ vạn. Còn hai cườm tay có đeo hai chiếc bằng ốc trắng, hai bên cánh tay trỏ có xuyến thất châu coi rất xinh lịch, lại hai trái tai có được ngọc bửu đương và trong các ngón tay đều có đeo vòng nhỏ. Trên đầu thì đội mão hoa quang, trên mão ấy có hóa hiện ra 5 vị Như Lai. Nơi mặt ngài có 3 con mắt, trong mỗi con mắt ấy coi rất sắc sảo, dường như chăm chỉ ngó các chúng sanh mà có ý sanh lòng từ mẫn vậy. Toàn thân của ngài có mười tám cánh tay, mỗi bên chín cánh. Hai bàn tay ở trên hết thì kiết ấn Chuẩn Đề, như tướng đương lúc thuyết pháp. Tay trái thứ hai cầm lá phướn như ý, còn tay mặt kiết ấn thí vô uý. Tay trái thứ ba cầm một bông sen đỏ, còn tay mặt cầm cây gươm. Tay trái thứ tư cầm một bình nước, còn tay mặt cầm một xâu chuỗi Ni ma bửu châu. Tay trái thứ năm cầm một sợi dây kim cang, còn tay mặt cầm một trái la ca quả. Tay trái thứ sáu cầm một cái bánh xa luân, còn tay mặt cầm một cái búa. Tay trái thứ bảy cầm cái pháp loa, còn tay mặt cầm cái thiết câu. Tay trái thứ tám cầm một cái bình như ý, còn tay mặt cầm một cái chày kim cang. Tay trái thứ chín cầm một cuốn kinh Bát Nhã Ba La Mật, còn tay mặt cầm một xâu chuỗi dài. Ngài ngồi trên tòa sen, dưới có hai vị Long Vương ủng hộ. Đó là bửu tượng của ngài đại lược như vậy, nếu ai có lòng trì niệm, muốn chiến vọng mà quán tưởng, thì vọng niệm chẳng sanh mà chân tâm hiển hiện. Nếu công phu thuần thục lâu rồi, chẳng có chút gì gián đoạn, thì sẽ đặng phước quả rất rộng lớn, có ngày đạt tới nơi cực quả Bồ Đề nữa. Song đương thời kỳ mạt pháp, những người sơ cơ hành giả, tam nghiệp chưa thuần, chẳng hay làm theo phương pháp chư quán, nên tâm sanh biếng nhác, thì tự nhiên phải mất hẳn hột giống bồ đề. Nếu ai nương theo kinh pháp của ngài mà thọ trì, thì mau đặng chỗ linh nghiệm. Đương lúc quán tưởng thần chú của ngài, thì cần nhất phải tương phù, thì nẻo sanh tử nào mà ra chẳng khỏi, chỗ niết bàn nào mà chứng chẳng đặng! Vậy nên phải ân cần chuyên chú mà tu tập theo yếu pháp của ngài, thì sẽ thấy rõ các việc hiệu quả. Thần Chú Chuẩn Đề Khể thủ quy y Tô tất đế ầu diện đảnh lễ Thất câu chi Ngã kim xưng tán ại Chuẩn ề Duy nguyện từ bi thùy gia hộ Nam mô tát đa nẩm tam miệu tam bồ đề, Câu chi nẩm, Đát điệt tha, Án chiết lệ, chủ lệ, Chuẩn ề, Ta bà ha. Hiệu quả Tướng pháp, mặt mày quang minh sáng ngời, tâm không gợn chút bợn nhơ, vô tư trong sáng, siêng tu tịnh nghiệp, giải thóat hồng trần, lánh xa mùi tục lụy. Trì tụng thần chú Chuẩn ề còn có rất nhiều lợi ích khác Tai qua nạn khỏi tật bệnh tiêu trừ. Làm ăn mua bán ăn nên làm ra, gia đình hạnh phúc. Phiền não nghiệp chướng nặng nề đều tiêu pha. Trợ duyên cho lực tu bất thối chuyển. Giúp cho tam nghiệp thanh tịnh. Trừ ma chướng, ma lực nội tại, tâm an ổn, ma chướng ma lực ngoại tại không quấy nhiễu người tu. Nếu tụng chú Chuẩn đề, ngồi đàn chú Chuẩn ề còn có chỗ nghĩ suy Vọng tâm để trừ ma quỷ, thiên ma, trị quỷ ma ám hại trẻ con, trị con sát cho trẻ con, trị quỷ ma ám hại người khác, đều nầy sẽ dẫn đến dị đoan? Tụng chú Chuẩn đề Phật Mẫu đạt đến chỗ thần thông mật nguyện, thì các vị Pháp sư sẽ khuyến tấn chúng sanh, mọi người cũng tinh tấn tụng chú lực Chuẩn ề để được như ý nguyện thì Pháp sư ấy hành đạo có phần đúng chánh pháp. Kinh Phật dạy tụng thần chú trừ ma quỷ, tức là trừ nghiệp chướng tham sân si bản thân, trì tụng để được giải thoát, không phải trì tụng chú Chuẩn ề để trừ ma quỷ giùm cho người khác. iều nầy chỉ có những người ngoại đạo, các ông thầy pháp, thầy lỗ bang… mới có ý tưởng đó. ức Phật không dạy chư Tăng Ni, Phật tử làm việc “Mê tín dị đoan” mất thời giờ tu tĩnh cho mọi người, mất công vô ích. Trì niệm chú Chuẩn ề Sanh trí lực trì tụng chú Chuẩn ề Sanh phước lực, chúng ta nên thường xuyên nương theo Tổ lực của ngài Long Thọ mà đảnh lễ quy y ức Phật Mẫu. Trên là bốn câu kệ của Tổ sư Long Thọ Khể thủ… tán thán đảnh lễ Phật Mẫu, dưới đây là nói về thần chú Nam mô Tát đa nẩm, tam miệu tam bồ đà, Câu chi nẩm đát điệt tha. Án, Chiết lệ chủ lệ chuẩn đề ta bà ha. Trích Kinh Tam Bảo của Cụ Hồng Tại oàn Trung Còn. Lực dụng thần chú Người trì tụng thần chú đủ chín mươi muôn biến, có thể diệt được các tội thập ác, tứ trọng và ngũ nghịch. Nhẫn đến với nhà thế tục nào bất luận là tịnh hay uế, chỉ cần chí tâm tụng trì thần chú, liền được tiêu trừ nạn tai bệnh họan và tăng long phước thọ. Tụng đủ 49 ngày, liền được Phật Mẫu sai hai vị Thánh giả phù hộ người ấy trong những lúc đi đứng nằm ngồi Nhị khóa hiệp giải, trang 87, HT. Thích Khánh Anh biên dịch, GHTGNV xuất bản. Ở sự linh diệu khác, nếu hành giả siêng tu trì tụng chú nầy đến ngày lâm chung thác sanh vào chổ thiện duyên và hưởng nhiều sự an lạc trong cuộc đời. ối với người Phật tử giữ đủ tam quy, trì năm giới, một lòng kiên cố, không thối chuyển, siêng trì tụng thần chú Chuẩn ề, lâm chung sanh về cõi trời, hưởng phúc đức đời đời, hay là sanh trong cõi nhơn gian làm vị Quốc chủ trong thiên hạ, hoặc làm bậc công hầu, thường gần gũi các vị thánh hiền, chư thiên ái kính, ủng hộ gia trì, không đọa vào đường ác duyên, ác thú. ối với những người thích kinh doanh trên thương trường thế cuộc, thì gặp vận may, không có tai hại gì, cho đến nghi dung đoan chánh, lời nói ôn hòa, tâm không phiền não, an nhàn tự tại, lui tới thung dung, hưởng phước báo một đời rất nên mỹ mãn. Lực dụng xuất thế gian Nói đến hiệu quả của người xuất gia, nếu gìn giữ giới cấm hoàn toàn, công hạnh thuần thục, mỗi ngày siêng tu ba thời tụng niệm, rồi y theo pháp của ức Chuẩn đề mà tu hành và chí nguyện cầu đến chổ tất địa xuất thế gian của chư Phật, thì tự nhiên tâm không ái ngại, tánh lại viên minh, một màu thanh tịnh, không còn trước nhiễm nơi cảnh hữu vi, chỉ thấy định huệ hiện tiền, viên mãn quả địa Ba la mật, tương lai chứng quả vô thượng chánh đẳng chánh giác. ức Chuẩn ề Phật Mẫu là ngôi pháp thân Bồ tát ở cõi trang nghiêm thế giới, không có giáng sanh nơi cõi nhân gian. Song giáo pháp của ngài rất bí mật mà nay được rõ biết đây, là do nơi ức Phật Thích Ca giải rõ chỗ nhân địa và hình tướng, nên người sau mới biết công đức và họa tượng thờ ngài với mười tám tay, mỗi bên chín cánh, mỗi tay cầm một bửu báu là như vậy. Tâm Hướng Phật/St!

trì tụng là gì