Chuyên gia đưa lời khuyên bất ngờ với nhà đầu tư muốn 'bắt đáy' nhà, đất Nhiều nhà đầu tư đang có động thái chờ đợi những đợt bán tháo, giảm giá sâu để "bắt đáy" khi thị trường hạ nhiệt, rơi vào trầm lắng nhưng chuyên gia khuyến cáo rằng việc này cần nghiên cứu kĩ lưỡng. Bỏ khung giá đất - 'đòn bẩy' đẩy nhanh tiến độ các dự án
Thúy Ngân đón tuổi 30 bên Trương Thế Vinh và bạn bè Trương Thế Vinh ngon trym rồi . melbourne7511 Senior Member. Apr 6, 2021 #32 via theNEXTvoz for iPhone . Reactions: Lucil123, eternal_vnn, Lucifercs777 and 1 other person. Pianchipi Senior Member.
Việt Nam là thị trường cung cấp thủy sản lớn thứ 4 về trị giá cho Nhật Bản trong tháng 7 và 7 tháng đầu năm 2022; Thị phần thủy sản Việt Nam trong tổng nhập khẩu của Nhật Bản ổn định ở mức 8,6%. - Gỗ và sản phẩm gỗ: 8 tháng đầu năm 2022, kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ đạt 11,2 tỷ USD, tăng 7% so với cùng kỳ năm 2021.
4. Nguyên Thi Chính 5. Trân Thi Bé Närn Ban kiêm soát HQ và tên l. Nguyen Kim Phuong 2. Duong Thi Thúy 3. Nguvên Ván Háng 4. Tô Thi Circ Ban Gilim doc I và ten l. Luong I Ioàncy 1Mänh 2. Täng Tuân Anh 3. Nguvèn Chàu I-åoà112 Quvên Chórc vu Chù tich Phó Chú tich Phó Chil tich CJv vièn CJy vièn Chúc vu Truong ban
Hệ thống tự động lấy ngẫu nhiên 20% các trang trong tài liệu Đặc điểm thuỷ sản thị trường thuỷ sản eu để tạo dạng ảnh để hiện thị ra. Ảnh hiển thị dưới dạng slide nên bạn thực hiện chuyển slide để xem hết các trang. Bạn lưu ý là do hiển thị ngẫu nhiên nên có thể thấy ngắt quãng một số trang, nhưng trong nội dung file tải về sẽ đầy đủ 15 trang.
Hoàng Thùy khoe dáng nuột trong ngày đi chấm sơ khảo Hoa hậu Quý bà Việt Nam. Đặc biệt, cô nàng rất tâm đắc với phần truyền hình thực tế và đang chờ đợi sự thể hiện của các thí sinh trong vòng sơ khảo. Xuất hiện với hình ảnh quyến rũ cũng như kinh nghiệm sân khấu dày dạn, Lâm Khánh Chi, Diệp Lâm Anh, Hoàng Thùy có những phần nhận xét chuẩn xác.
pfJPZJ0. Mỹ là một thị trường giàu tiềm năng với rất nhiều quốc gia sản xuất thủy sản, bởi nơi đây kinh tế phát triển, dân số đông và thị hiếu ưu chuộng thủy sản. Tuy nhiên, thị trường này cũng tiềm ẩn nhiều rào cản và cạnh tranh khốc liệt. Giàu tiềm năng Với dân số gần 320 triệu tính đến hết năm 2014; thu nhập bình quân USD/người/năm Ngân hàng Thế giới công bố đầu tháng 7/2014; nhu cầu tiêu thụ thực phẩm, nhất là thủy sản cả số lượng và chất lượng ở mức cao; sức mua lớn, giá cả ổn định; mặt hàng chất lượng càng cao, càng đắt giá thì càng dễ tiêu thụ… Bên cạnh đó, người Mỹ rất tự do trong việc chọn hàng tiêu dùng cho mình. Họ có thể chọn sản phẩm trong hoặc ngoài nước tùy ý, miễn là đáp ứng được nhu cầu… Tất cả những yếu tố đó khiến Mỹ trở thành thị trường hấp dẫn nhất, không chỉ đối với các nhà xuất khẩu thủy sản ở châu Á trong đó có Việt Nam, mà còn là mục tiêu của nhiều nước thuộc châu lục khác. Mỹ cũng là quốc gia có ngành thủy sản khá phát triển nhưng vẫn không đủ đáp ứng nhu cầu của người dân về chủng loại và chất lượng một số mặt hàng thủy sản; theo đó, vẫn phải nhập khẩu từ nước khác, và Việt Nam cũng là thị trường được chọn trong số đó. 11 tháng đầu năm 2014, Mỹ là thị trường nhập khẩu hàng đầu của thủy sản Việt Nam, với giá trị 1,6 tỷ USD, tăng 16,2% so cùng kỳ năm ngoái; trong đó, mặt hàng tôm 990 triệu USD, cá tra 302 triệu USD, cá ngừ 161 triệu USD, nhuyễn thể hai mảnh vỏ 6,45 triệu USD… Nhìn tổng quát, Mỹ là thị trường tiêu thụ rộng lớn và giàu tiềm năng của ngành thủy sản Việt Nam. Chế biến tôm xuất khẩu – Ảnh An Đăng Nhiều trở ngại Thị trường Mỹ giàu tiềm năng nhưng khá khắt khe. Khi đời sống lên cao thì nhu cầu đối với các loại thủy sản cũng tăng mạnh, nhưng người tiêu dùng Mỹ lại đòi hỏi rất cao. Sản phẩm thủy sản phải đạt tiêu chuẩn về mẫu mã, chất lượng, độ an toàn thực phẩm, hàm lượng chất dinh dưỡng thì mới đủ khả năng xuất hiện và cạnh tranh trên thị trường này. Chính phủ Mỹ cũng có nhiều quy định đôi với sản phẩm thủy sản nhập khẩu. Ngày càng nhiều rào cản phi thuế quan xuất hiện Luật hiện đại hóa thực phẩm loại rào cản SPS, TBT; Luật trang trại loại rào cản SPS; Điều tra chống bán phá giá có nguy cơ lặp lại; thuế chống trợ cấp… Cùng đó, hàng thủy sản nhập khẩu vào Mỹ phải qua sự kiểm tra chặt chẽ của Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ FDA theo tiêu chuẩn HACCP. Vấn đề vệ sinh thực phẩm, ô nhiễm môi trường, bảo vệ sinh thái… là những lý do mà Mỹ thường đưa ra để hạn chế nhập khẩu. Hơn nữa, Việt Nam bước vào thị trường Mỹ chậm hơn so với hầu hết các đối thủ, khi thị trường đã ổn định người mua, người bán, thói quen, sở thích, sản phẩm. Cần nâng cao chất lượng Xuất khẩu thủy sản sang Mỹ năm 2014 đóng góp 22% giá trị xuất khẩu của ngành thủy sản Việt Nam, tăng trưởng hơn 16%. Sự tăng trưởng này chủ yếu nhờ đẩy mạnh xuất khẩu tôm. Tuy nhiên, năm 2015, giá trị xuất khẩu tôm Việt Nam sang Mỹ liệu có khả năng duy trì được tốc độ tăng trưởng như hiện nay hay không, khi mới đây bên cạnh việc áp thuế chống bán phá giá với cá tra, Bộ Thương mại Mỹ DOC trong một tuyên bố mới nhất đã tiếp tục giữ nguyên mức thuế chống bán phá giá đối với tôm Việt Nam. Như vậy, áp thuế chống bán phá giá và kiểm soát chặt dư lượng kháng sinh tiếp tục sẽ là những thách thức cho các nhà xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang Mỹ. Theo đó, nhiều chuyên gia trong ngành, để tránh các rào cản, nhất là các vụ kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp, các cơ quan hữu quan và hiệp hội ngành hàng cần hỗ trợ chi phí cho doanh nghiệp và lập ra đội ngũ kỹ thuật chuyên trách ứng phó các vụ kiện; doanh nghiệp cần chuyển từ cạnh tranh bằng giá sang cạnh tranh bằng chất lượng, thay đổi thói quen canh tác đảm bảo an toàn, hiện đại, không nên sử dụng các loại hóa chất cấm trong quá trình bảo quản, chế biến, kiểm soát nguồn nguyên liệu trước khi chế biến… Đồng thời, Chính phủ cần tranh thủ cơ hội đàm phán những Hiệp định Thương mại Tự do FTA để các nước khác công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường. >> Điều quan trọng nhất mà tất cả các thị trường hướng đến là buộc các nhà sản xuất/chế biến thủy sản Việt Nam phải cải tiến chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm. Nếu làm tốt điều này, xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang Mỹ nói riêng, các thị trường khác nói chung, hoàn toàn có thể tiếp tục duy trì mức tăng trưởng giá trị hai con số trong năm 2015.
Trung Quốc là một trong những quốc gia có lượng tiêu thụ thủy sản lớn nhất thế giới, đồng thời cũng là nước xuất nhập khẩu thủy sản lớn, chiếm 18% NK thủy sản TG. Trung Quốc đóng một vai trò quan trọng trong thị trường thủy sản toàn cầu và bất kỳ thay đổi nào trong sản lượng thủy sản Trung Quốc và nhu cầu thị trường sẽ có tác động domino lên giá toàn cầu. Thị trường thủy sản Trung Quốc bùng nổ mang lại cơ hội lớn cho các nhà xuất khẩu thủy sản quốc tế. Nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng của Trung Quốc, cộng với sự thiếu hụt nguồn cung thủy, hải sản trong nước đã khiến nhập khẩu thủy sản của Trung Quốc tăng lên qua từng năm. Mặt khác, thu nhập của người dân cao hơn, tần suất tiêu dùng và số lượng người tiêu thụ thủy sản tăng đã trở thành động lực chính thúc đẩy nhu cầu tiêu thụ thủy sản của người dân Trung Quốc tăng lên trong những năm gần đây. Sản lượng Trung Quốc đứng đầu thế giới về sản lượng thuỷ sản, dao động khoảng 63 triệu tấn/năm, ít biến động trong những năm qua. Trung Quốc có số lượng tàu đánh bắt nhiều nhất TG khoảng tàu khai thác. Tuy nhiên, nguồn lợi thuỷ sản của nước này đang giảm đi đáng kể do tình trạng khai thác quá mức và ô nhiễm nguồn nước. Thế mạnh XK thuỷ sản của Trung Quốc là các loài cá nuôi, chiếm 53% các loài chính là cá rô phi, cá chép, cá trắm, cá diếc, cá mè…Trong đó, cá rô phi Trung Quốc đứng số 1 thế giới về sản lượng và XK và là loài cá thịt trắng cạnh tranh với cá tra Việt Nam tại các thị trường TG và chính thị trường nội địa Trung Quốc Các tỉnh sản xuất thủy sản hàng đầu của Trung Quốc là Quảng Đông, Sơn Đông và Phúc Kiến, do vị trí ven biển thuận lợi, nguồn nước ngọt dồi dào và có các cơ sở sản xuất chế biến. Các địa phương sản xuất thủy sản nước ngọt hàng đầu là các tỉnh Hồ Bắc, Quảng Đông và Giang Tô. Đặc điểm tiêu thụ thủy sản tại thị trường Trung Quốc Dữ liệu thống kê của Trung Quốc cho thấy mức tiêu thụ thủy sản của nước này đã tăng từ 11,5 kg bình quân đầu người năm 1990 lên 25,4 kg năm 2004, và ước đạt 35,9 kg trong năm 2021, tương đương khoảng 52 triệu tấn. Dự đoán giai đoạn 2022 – 2023 tiêu thụ thuỷ sản sẽ tăng lên khoảng 39-40kg/người 58 triệu tấn với dân số 1,5 tỷ người , tới năm 2028 dự báo tiêu thụ thuỷ sản tăng tới trên 44kg/người 64 triệu tấn Tuy nhiên, tiêu thụ thủy sản ở Trung Quốc phân bổ không đồng đều. Ở các khu vực ven biển phía Đông, mức tiêu thụ thủy sản rất cao, trong khi ở khu vực nội địa khá thấp, và vận chuyển dây chuyền lạnh phần nào làm hạn chế tiêu thụ thủy sản trong khu vực nội địa. Theo truyền thống, người tiêu dùng Trung Quốc thích hải sản tươi sống hơn thực phẩm chế biến sẵn, vì vậy mức tiêu thụ thủy sản chế biến trong nước tương đối thấp. Tuy nhiên, tiêu thụ thủy sản chế biến dự kiến sẽ tăng do sự cải thiện cơ sở hạ tầng chế biến, phân phối và chuỗi lạnh ở Trung Quốc, cũng như số lượng người tiêu dùng trẻ ngày càng tăng. Chế biến, gia công XK Là nước tiêu thụ thuỷ sản lớn, nhưng Trung Quốc cũng là một cường quốc về chế biến thủy sản với khoảng 9,2-9,3 nghìn cơ sở chế biến, tổng công suất 28,5 triệu tấn/năm. Những năm gần đây Trung Quốc chế biến 21- 22 triệu tấn thuỷ sản 80% là cá biển, 20% là cá nước ngọt. Hàng năm, một lượng lớn thủy sản được NK, một phần đáng kể được chế biến và XK. Các tỉnh Sơn Đông, Phúc Kiến, Liêu Ninh, Chiết Giang và Hồ Bắc chiếm 76% tổng sản lượng của cả nước. Các tỉnh này còn có nhiều cơ sở chế biến do nước ngoài sở hữu và cũng được trang bị cảng và kho lạnh để nhập khẩu, chế biến và tái xuất thủy sản. Các sản phẩm chế biến chủ yếu là cá tuyết cod đông lạnh,, cá tuyết hake đông lạnh, tôm đông lạnh, cá thu, cá hồi, cá trích, mực nang và mực ống đông lạnh. Nguyên liệu thô chủ yếu từ Nga, Ecuador, Hoa Kỳ và Indonesia. Nhập khẩu. Trung Quốc đã tạo ra nhu cầu rất lớn trên thị trường thủy sản toàn cầu. Theo báo cáo của Rabobank, Trung Quốc có khả năng trở thành thị trường nhập khẩu thủy sản trị giá 20 tỷ USD trong vài năm tới. Việc cải thiện sức tiêu thụ của Trung Quốc là một trong những động lực thúc đẩy sự phát triển của ngành thủy sản toàn cầu. Top 10 nhà XK thủy sản hàng đầu của Trung Quốc bao gồm Nga, Ecuador, Việt Nam, Ấn Độ, Canada, Hoa Kỳ, Indonesia, Na Uy, Australia và New Zealand. Nhập khẩu từ 10 quốc gia này chiếm gần 70% tổng kim ngạch nhập khẩu thủy sản của Trung Quốc. Top 10 mặt hàng thủy sản nhập khẩu phổ biến nhất tại thị trường Trung Quốc là tôm, tôm hùm, cá tuyết cod đông lạnh, cua, cá hồi, cá tuyết hake đông lạnh, mực nang, mực ống, philê cá tra đông lạnh và cá chim. Cá hồi chủ yếu đến từ Na Uy và Chile; tôm hùm chủ yếu đến từ Úc, New Zealand và Mexico; hơn 50% tôm nhập khẩu đến từ Ecuador; khoảng 40% cua huỳnh đế tươi sống đến từ Nga ... Dữ liệu do hải quan Trung Quốc cung cấp cho thấy 93% cá tuyết đông lạnh được nhập khẩu từ Nga; hơn 65% cá bơn đông lạnh đến từ Hoa Kỳ và 17% từ Nga. 42% mực nang và mực ống đông lạnh đến từ Indonesia và 17% từ New Zealand. Trung Quốc là thị trường xuất khẩu cá đông lạnh lớn nhất của Nga. Năm 2019, 53% xuất khẩu cá đông lạnh của Nga sang Trung Quốc đã vượt xa điểm đến lớn thứ hai là Hàn Quốc 23%. Thủy sản nhập khẩu nào được ưa chuộng tại thị trường Trung Quốc? Với sự phát triển của nền kinh tế Trung Quốc và sự cải thiện của sức mua quốc gia, người tiêu dùng Trung Quốc ngày càng quan tâm hơn đến các sản phẩm thủy sản tốt cho sức khỏe, không ô nhiễm và chất lượng cao . Xét về mức độ phổ biến, các sản phẩm thủy sản được tiêu thụ nhiều nhất ở Trung Quốc là tôm, cá chim và mực. Việc người tiêu dùng Trung Quốc theo đuổi hải sản chất lượng cao và tốt cho sức khỏe cũng được phản ánh trong các sản phẩm cao cấp như tôm hùm, cá hồi, cua huỳnh đế, bào ngư và sò điệp. Những sản phẩm chất lượng cao ngày càng trở nên phổ biến hơn đối với người tiêu dùng trung lưu, và sự bổ sung của các kênh thương mại điện tử đã làm tăng đáng kể sự tiện lợi khi mua hàng của người tiêu dùng. Tác động của đại dịch mới đối với thị trường thủy sản Trong hai năm qua, ngành thủy sản toàn cầu đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh, gây ra các rào cản thương mại quốc tế, làm tăng trưởng kinh tế toàn cầu chậm lại và sức mua của người tiêu dùng suy yếu. Nhưng so với các nước trên thế giới, tiềm năng tiêu thụ thủy sản tại thị trường Trung Quốc còn rất lớn. Việc phục hồi dịch ở Trung Quốc nhanh hơn các khu vực khác nên nước ngoài rất coi trọng và triển khai tại thị trường Trung Quốc. Hiện tại, dịch bệnh viêm phổi mới đã được kiểm soát hiệu quả ở Trung Quốc, và tiêu thụ thủy sản đang phục hồi. Đồng thời, mức thu nhập của người dân Trung Quốc tiếp tục tăng, nhóm thu nhập trung bình và cao có nhu cầu tiêu dùng thực phẩm cao, triển vọng tiêu thụ thủy sản có nhiều triển vọng. Sau dịch bệnh, thị trường thủy sản của Trung Quốc sẽ được tiêu chuẩn hóa hơn trong tất cả các khía cạnh chế biến, lưu kho, vận chuyển và bán hàng theo chuỗi lạnh , điều này sẽ cải thiện chất lượng của toàn ngành thủy sản và loại bỏ các thị trường và công ty chế biến không tuân thủ. Đổi mới trong ngành thủy sản của Trung Quốc Dịch bệnh đã thay đổi tiêu chuẩn thực phẩm của người tiêu dùng Trung Quốc, và chất lượng và an toàn thực phẩm đã trở thành lựa chọn hàng đầu. Giờ đây, các sản phẩm thủy sản của Trung Quốc có thể truy xuất được nguồn gốc của chúng, người tiêu dùng phần lớn đã áp dụng biện pháp đảm bảo này. Ngoài ra, mã QR được áp dụng trên bao bì sản phẩm cho phép họ có được thông tin liên quan về sản phẩm thành phẩm, chứng chỉ theo chuỗi, chứng nhận xuất xứ và được tư vấn về cách nấu thức ăn. Nhà sản xuất có thể truy cập dữ liệu người tiêu dùng và sử dụng dữ liệu đó một cách thông minh để tối ưu hóa quy trình sản xuất, cải thiện chất lượng và tăng cường kết nối giữa khách hàng và sản phẩm. Xu hướng và cơ hội - Chuỗi nhà hàng hải sản quy mô lớn ở TQ đang có đà phát triển mạnh mẽ, chuỗi cửa hàng thức ăn nhanh, giao thức ăn, lẩu, bữa ăn tập thể phát triển nhanh chóng. - Các dịch vụ thông minh, kỹ thuật số và sáng tạo đã trở thành trọng tâm phát triển trong tương lai của ngành dịch - Dân số lớn, nhu cầu tiêu thụ thực phẩm và thủy sản ngày càng cao. Dự kiến Trung Quốc sẽ tiêu thụ khoảng 36% tổng sản lượng toàn cầu vào năm 2028, với mức tiêu thụ bình quân đầu người đạt khoảng 44,3 kg so với 39,3 kg trong giai đoạn hiện nay. - Sản xuất thủy sản bị hạn chế vì yếu tố môi trường trong cả khai thác và nuôi trồng, không đủ đáp ứng cho nhu cầu - Với sự cải thiện của mức thu nhập của người dân và sự phát triển của dịch vụ hậu cần, thị trường tiêu thụ thủy sản của Trung Quốc sẽ duy trì sự tăng trưởng trong dài hạn. - Thương mại điện tử phát triển sự bổ sung của các kênh thương mại điện tử đã làm tăng đáng kể sự tiện lợi khi mua hàng của người tiêu dùng. - Thuế VAT và thuế NK thủy sản tiêu thụ trong nước giảm. Thủy sản NK được chế biến và bán ở Trung Quốc để tiêu thụ trong nước phải chịu mức thuế từ 7 đến 14 %. Trong những năm gần đây, Chính phủ Trung Quốc đã ban hành mức thuế suất tạm thời thấp hơn từ 2 đến 5% đối với một số sản phẩm. Vào năm 2020, thuế Giá trị gia tăng VAT đối với thủy sản đã giảm từ 10% xuống 9%. Nguồn
Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc tiếp tục là 4 thị trường nhập khẩu hàng đầu của thủy sản Việt Nam trong 3 tháng đầu năm 2021, chiếm 57 % tổng giá trị xuất khẩu thủy sản. Theo Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản Bộ NN&PTNT, giá trị xuất khẩu thủy sản tháng 4 năm 2021 ước đạt 650 triệu USD, đưa giá trị xuất khẩu thủy sản 4 tháng đầu năm 2021 đạt 2,4 tỷ USD, tăng 6% so với cùng kỳ năm quý I/2021, xuất khẩu sang thị trường Mỹ đạt 335 triệu USD, chiếm 19% trong tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản của cả nước, tăng 17% so với cùng kỳ năm khẩu thủy sản có tín hiệu tích cực ở các thị trường như Đức, Canada, Hàn Quốc Ảnh VASEPThống kê từ Cục Nghề cá biển Mỹ NMFS cho thấy xuất khẩu hai mặt hàng cá tra và tôm sang Mỹ nhiều tín hiệu lạc quan khi trong tháng 2, Mỹ đã nhập khẩu tấn phile cá tra đông lạnh trị giá 21,4 triệu trung bình nhập khẩu của cá tra phile đông lạnh ở mức 2,5 USD/kg, tăng 2,5% so với tháng 1. Trong tháng 2, Mỹ cũng đã nhập khẩu 53 tấn tôm trị giá 450 triệu Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản, trong 4 tháng qua, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường Nga tăng mạnh nhất, tăng tới 55%.Xuất khẩu thủy sản sang thị trường Nhật Bản đạt 307 triệu USD, chiếm 18%, giảm 2% so với cùng kỳ năm 2020. Tính riêng tháng 3, xuất khẩu thủy sản đạt 125 triệu USD, tăng gần 80% so với tháng 2, giảm gần 3% so cùng kỳ năm khẩu thủy sản sang thị trường sang EU đạt gần 238 triệu USD tăng 2,4% so với cùng kỳ năm khẩu thủy sản sang Trung Quốc quý I/2021 đạt gần 162 triệu USD, chiếm hơn 9 % tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam trong quý này, tăng 15% so với quý I/2020;Xuất khẩu thủy sản sang thị trường Hàn Quốc đạt 161 triệu USD, tăng gần 5% so với cùng kỳ năm NN&PTNT kỳ vọng tăng xuất khẩu thủy sản sang các thị trường như Đức, Canada, Hàn Quốc… gồm các mặt hàng như cá tra, bạch tuộc, tôm. Theo đó, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam cần tận dụng tốt các chính sách từ Hiệp định EVFTA, Hiệp định CPTPP, miễn thuế nhập khẩu 0% để tăng kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang các thị trường tiềm năng như Châu Âu, Châu Á, EU…
thi truong thuy san